Tính cần thiết của việc giáo dục tư duy trong nhà trường - EduMind

- Chiều 17-4-2008, một buổi tọa đàm về vấn đề giáo dục tư duy trong nhà trường đã diễn ra tại trường THCS Chu Văn An. 

- Với quy mô khiêm tốn, cuộc tọa đàm đã trở thành một buổi chia sẻ, trao đổi thân mật giữa TS. Phan Tất Thứ, đại diện Tổ hợp KNV (doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn và đào tạo) và tập thể giáo viên nhà trường - những người luôn tâm huyết, trăn trở tìm cách đóng góp công sức nhỏ bé của mình nuôi dưỡng những mầm non tương lai của đất nước. Nhân dịp này, xin có đôi điều bàn về tính cần thiết của việc giáo dục tư duy trong nhà trường.

- Albert Einsteins- nhà khoa học vĩ đại và đáng kính đã trả lời phỏng vấn trên Tạp chí New York Times, mùa thu năm 1952 về vấn đề giáo dục tư duy độc lập như sau: “Dạy cho con người một chuyên ngành thì chưa đủ. Bởi bằng cách đó, anh ta tuy có thể trở thành một cái máy khả dụng nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng là anh ta phải được dạy để có một cảm thức sống động về cái gì là đáng để phấn đấu trong cuộc đời”.

- Ngay từ những năm giữa thế kỷ trước, các nước phát triển đã nhận thức được rằng giáo dục một con người không chỉ là giáo dục chuyên môn mà còn là giáo dục tư duy, giáo dục để người đó tự ý thức, tự cảm giác, và tự khám phá bản thân cũng như cuộc sống muôn màu. Có lẽ đó chính là mấu chốt cơ bản giải thích tại sao nền giáo dục Việt Nam hiện tại chưa được đánh giá cao và chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh thực trạng giáo dục chung, Việt Nam có rất nhiều học sinh, sinh viên ưu tú, đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, hầu hết các sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài đều có thành tích học tập rất cao, điều này chứng tỏ rằng trí tuệ của người Việt Nam không hề thua kém, thậm chí còn được các bạn quốc tế đánh giá cao. Sẽ là không khách quan nếu cho rằng có kết quả như vậy là do những học sinh, sinh viên này được hưởng một môi trường giáo dục tốt hơn, vì hầu hết các em được giáo dục một cách cơ bản như các học sinh, sinh viên khác trong nước. Nhưng chắc chắn có một điều khác biệt ở những học sinh, sinh viên này, đó là các em đều học tập, nghiên cứu với tất cả niềm say mê, khả năng tìm tòi và sáng tạo của mình. Để đạt được những thành tích như vậy, có thể khẳng định không có em nào học theo phương pháp học thuộc lòng, học vẹt. Từ đó có thể thấy việc nghiên cứu và áp dụng giáo dục tư duy trong nhà trường đang là vấn đề cấp thiết.

- Có thể thấy rõ vấn đề nêu trên qua kết quả dạy và học môn lịch sử ở Việt Nam thời gian qua. Lịch sử được coi là một môn học rất quan trọng, được giảng dạy xuyên suốt trong hệ thống chương trình giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, điểm số qua những kỳ thi về lịch sử cũng như kết quả khảo sát về kiến thức lịch sử của một bộ phận thanh thiếu niên trong xã hội cho thấy môn học này đã không “đến” được với học sinh, sinh viên. Đối với các em, lịch sử đã trở thành một môn học nhàm chán, chỉ là những con số, cột mốc, những cái tên không để lại nhiều ấn tượng. Các em không thực sự hiểu vì sao mình phải học lịch sử, cần học lịch sử và cũng không nhận thức được học lịch sử thì sẽ có lợi gì cho bản thân. Bộ môn lịch sử với những sự kiện, niên đại khô khan không thể khơi dậy niềm say mê, sự ham thích tìm tòi trong học sinh, sinh viên. Các em chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất, đó là học thuộc lòng những điều in trong sách giáo khoa và bài giảng của thầy cô. Những kiến thức của môn học này, vì thế, đi vào và đi ra khỏi bộ não của các em như là một điều tất nhiên. Nếu như các em được đào tạo và rèn luyện khả năng tư duy, được phép nhận xét, phát biểu ý kiến, tiếp cận vấn đề bằng những phương pháp khác nhau thì chắc chắn kết quả giáo dục môn lịch sử sẽ được cải thiện rất nhiều.

- Nhận thức được tính cấp thiết của việc cải cách giáo dục, trong thời gian vừa qua, hàng loạt các biện pháp đã được ngành Giáo dục và cả những người tâm huyết đưa ra, một số trong đó đã bước đầu được đưa vào thực hiện và đem lại hiệu quả nhất định. Và trong số đó, giáo dục tư duy cần phải được coi là biện pháp đầu tiên, quan trọng nhất, được thực hiện bởi tất cả các cá nhân trong xã hội. Cũng cần thấy rằng để làm được điều này, không chỉ cần sự cố gắng của những người lãnh đạo, các nhà quản lý hay đội ngũ giáo viên, mà còn cần sự vào cuộc của toàn thể cộng đồng, trong đó có các bậc cha mẹ học sinh.